Thư Đỗ

Giới hạn kim loại nặng (Chì- Thủy ngân- Ásen)

Theo phụ lục số 06-MP, ban hành kèm theo Thông tư 06/2011/TT-BYT của Bộ y tế quy định về quản lý mỹ phẩm, có 3 kim loại nặng bị giới hạn trong mỹ phẩm là chì, thủy ngân, asen.

Theo đó, các giới hạn của những chất này ở Việt Nam (cũng như ở khu vực ASEAN) như sau:

STT

Chỉ tiêu

Giới hạn

1

Thuỷ ngân

Nồng độ tối đa cho phép có trong sản phẩm mỹ phẩm là 1 phần triệu (1 ppm)

2

Asen

Nồng độ tối đa cho phép có trong sản phẩm mỹ phẩm là 5 phần triệu (5 ppm)

3

Chì

Nồng độ tối đa cho phép có trong sản phẩm mỹ phẩm là 20 phần triệu (20 ppm)

Thực tế, những kim loại nặng trên chính là chất cấm trong mỹ phẩm, không nhà sản xuất nào được đưa các thành phần này vào trong sản phẩm của mình. Nhưng tại sao là chất cấm mà vẫn được quy định nồng độ cho phép?

Giới hạn của các kim loại kể trên là rất thấp (quy đổi sang tỉ lệ % thì thủy ngân, asen và chì có nồng độ tối đa lần lượt là 0,000001%, 0,000005%, và 0,00002%), nồng độ này không có ý nghĩa những chất này là thành phần, mà chỉ được coi như là tạp chất. Nhà sản xuất không chủ ý cho những kim loại nặng này vào mỹ phẩm nhưng vì lý do nào đó mà mỹ phẩm vẫn có thể bị nhiễm những kim loại nặng này, thông thường là nguyên liệu đầu vào có thể chứa tạp chất, hoặc môi trường sản xuất chứa tạp chất. Trong nền sản xuất hóa chất và chế biến các nguyên liệu tự nhiên, việc một chất chỉ có độ tinh khiết lên đến 99,99% là điều bình thường (ví dụ như vàng chất lượng tốt nhất hiện tại cũng là vàng 99,99% - vàng “bốn con chín” chứ không có vàng 100%).

Tại sao thủy ngân, chì và asen lại bị cấm trong mỹ phẩm?

Cả 3 kim loại nặng này đều ảnh hưởng đến mạng sống của con người, khiến cơ thể bị nhiễm kim loại nặng và có thể dẫn đến tử vong.

- Asen là thạch tín, là một chất kịch độc (trong các phim kiếm hiệp Trung Quốc, người ta đầu độc nhau bằng chất này). 0,12 gram thạch tín có thể gây chết người. Theo Viện hàn lâm khoa học Mỹ, dư lượng thạch tín 50 phần tỷ trong nước uống – tức là hàm lượng được Mỹ và Châu Âu cho phép – cũng gây nguy cơ ung thư là 15 trên 1000 người sử dụng.

- Chì đã từng được sử dụng để làm mỹ phẩm, thời xưa các nữ hoàng Ai Cập sử dụng nó để làm chì kẻ mắt và chì vẫn còn sử dụng mãi đến sau này. Vào thế kỷ 18, ở Châu Âu có nhiều ca ngộ độc chì do trang điểm, với triệu chứng là sưng và viêm mắt, hỏng men răng, đen da, và tử vong.

- Thủy ngân đã từng được sử dụng trong việc chữa bệnh và từng được tin là có thể kéo dài tuổi thọ. Tuy nhiên bây giờ khoa học hiện đại đã biết rằng chì ở dạng hơi hoặc các hợp chất và muối của thủy ngân là những chất kịch độc và dễ dàng được hấp thụ qua da. Ví dụ như độc tính của dimetyl thủy ngân là chỉ cần vài microlit rơi vào da có thể gây tử vong.

Hiện tại chúng ta đang không phân loại các chất độc này theo dạng hữu cơ hay vô cơ. Tuy rằng asen vô cơ thì độc còn asen hữu cơ thì không, hoặc thủy ngân vô cơ thì ít độc so với thủy ngân hữu cơ, nhưng hiện tại, giới hạn kim loại nặng trong mỹ phẩm theo Bộ Y Tế và theo ASEAN bao gồm tất cả các chất hữu cơ và vô cơ của chì, thủy ngân và asen.

Quy trình thử chì, thủy ngân và asen trong mỹ phẩm được thực hiện tại các Viện kiểm nghiệm thuốc và mỹ phẩm tại các tỉnh, thành phố trong cả nước. Đây là quy trình phức tạp và nguy hiểm bởi những kim loại này đều có độc tố cao.